Huyền thoại di tích 5 Ông Thẻ ở miền Tây Nam Bộ
Những di tích “Ông Thẻ”
Tại ấp Vĩnh Hòa A, xã Cần
Đăng, huyện Châu Thành, tỉnh An Giang có một ngôi miếu tồn tại hơn 150 năm.
Trên chiếc cổng xây năm 1999, có tấm biển ghi: "Dinh quan Thẻ, số 1".
Ngôi miếu chia làm 3 gian thờ. Tận trong cùng là bàn thờ Cửu huyền Thất tổ,
gian thứ hai thờ tấm trần điều Bửu Sơn Kỳ Hương và 12 ông đạo, gian thứ ba thờ
Đức Cố quản Trần Văn Thành - một lãnh tụ nghĩa quân lập căn cứ kháng chiến chống
Pháp ở Láng Linh vào những ngày đầu Nam Kỳ lục tỉnh rơi vào tay thực dân Pháp.
Trước ngôi miếu, một hồ sơn thủy có tượng song long chầu vị.
Ông thủ từ tên là Trần Minh
Thành, thường được gọi là Bảy Thảo, 73 tuổi, ông kể: Khoảng 150 năm trước, ông
nội tổ của ông tên là Trần Văn Đính từ miệt Hậu Giang xuôi về vùng đất này khai
hoang mở đất làm ruộng, đã phát hiện có một cây gỗ bên ngoài mục rỗng, có lẽ được
chôn từ rất lâu. Cây gỗ dài khoảng 1,5 mét, đường kính khoảng 35cm, được chôn đứng
dưới đất, chỉ nhú phần ngọn có hình búp sen trên mặt đất.
Từ cây trụ gỗ phát sinh nhiều
chuyện lạ. Theo lời đồn đại, vào những đêm tịch mịch, người trong làng lại nghe
tiếng trống thúc quân thì thùng vang lên từ hướng cây trụ gỗ nhưng đến gần thì
tiếng trống im bặt(?). Thấy cây trụ linh thiêng, ông Đính cất một cái miếu bằng
lá che nắng mưa rồi đốt nhang khấn nguyện hàng ngày. Trong làng, ai có đau bệnh,
tai ương đều đến trước trụ gỗ thành tâm khấn nguyện. Mấy chục năm sau, có một vị
tu sĩ đã đến xem xét và cho biết đó là thẻ bài trấn yểm của Đức Phật thầy Tây
An. Khi đào bới lên thì quả nhiên trên thân trụ có khắc dòng chữ "Bửu Sơn
Kỳ Hương".
Sợ người trần phạm húy, ông
Đính chôn cây trụ sâu xuống đất, bên trên xây hồ sơn thủy để bảo vệ rồi cất miếu
khang trang hơn để thờ "Quan Thẻ". Dân chúng các nơi đến nhang đèn thờ
cúng, cầu xin tài lộc ngày càng đông.
Dinh Quan Thẻ ở ấp Vĩnh Hòa
A, xã Cần Đăng, huyện Châu Thành, tỉnh An Giang.
Địa điểm thứ hai có di tích
"Ông Thẻ" là chùa Bồng Lai nằm sát mép kênh Vĩnh Tế, xã Vĩnh Tế thuộc
thị xã Châu Đốc, An Giang. Trong thời chống Mỹ, chùa Bồng Lai (còn có tên gọi
khác là chùa Bài Bài hoặc Bà Bài) là nơi trú ngụ bí mật của lực lượng cách mạng
địa phương. Bên trong ngôi miếu có thờ một lõi gỗ phủ vải đỏ. Đó là "Ông
Thẻ". Hậu liêu ngôi chùa có một ngôi miếu nhỏ, bên trong có một tấm bia
đá, viền mép có khắc hàng chữ Hán, được cô Út Diệu An - người giúp việc công quả
thờ phụng trong chùa dịch là: "Cái ếm này chôn vào mùa thu, tháng 8, năm
Càn Long, nhà Thanh thứ 57". Ở giữa tấm bia đá không có dòng chữ nào. Cô
Út cho biết, nguyên thủy đã từng có chữ bùa nhưng đã bị sư Cố (tức ông Đạo Lập,
tên tục là Phạm Thái Chung, người lập chùa) đục bỏ để giải ếm.
Dinh Ông Thẻ thứ ba nằm ở ấp
Vĩnh Lợi, xã Vĩnh Thạnh Trung, huyện Châu Phú, An Giang. Ông thủ từ Trần Văn Liệt,
53 tuổi khẳng định, ngày xưa, khi tiền nhân của ông đến khai khẩn miếng đất này
đã phát hiện "Ông Thẻ" vẫn còn cắm ngay vị trí bàn thờ hiện nay. Bà cố
của ông Sáu Liệt từng nhặt được kiếm, gậy và một số vật dụng xưa xung quanh nơi
"Ông Thẻ ngự".
Năm 1927, nhà khoa học địa chất Lưu Văn Lang, tổ
chức thám hiểm địa chất núi Cấm và phát hiện ra một hang đá có cắm "Ông Thẻ"
thứ tư. Bên cạnh hang Ông Thẻ có một hang đá sâu. Nhà thám hiểm đã một mình xuống
hang suốt 3 ngày đêm. Khi quay lên, ông tiết lộ rằng, nếu chiếu tọa độ hang
Ông Thẻ núi Cấm có khoảng cách bằng nhau với 3 ngôi dinh thờ Ông Thẻ đã kể ở phần
trên. Có nghĩa là hang Ông Thẻ núi Cấm là vị trí trung tâm của 3 Ông Thẻ còn lại.
Kinh giảng của giáo phái Bửu
Sơn Kỳ Hương có kể, Đức Phật Thầy Tây An "dùng gỗ lào táo đẽo thành 5 cây
thẻ rồi sai đệ tử là Quản cơ Trần Văn Thành đi cắm ở 5 địa điểm để trấn yểm huyệt
đạo vùng Thất Sơn theo thế Ngũ long trấn phục". Vậy, vị trí cây thẻ thứ 5 ở
đâu?
Theo truyền thuyết, Ông Thẻ
này được cắm ở rừng tràm thuộc Vĩnh Điều. Sau năm 1975, chính sách di dân khai
khẩn vùng kinh tế mới đã biến rừng tràm hoang sơ thành ruộng lúa mới. Năm 1997,
một nông dân có tên gọi là Tám Tăng, cư ngụ ở ấp Đồng Cơ, xã Vĩnh Phú, huyện
Giang Thành, tỉnh Kiên Giang đi thăm ruộng ở Gò Dưới đã nhặt được một cây kiếm
cổ. Nguồn tin nhanh chóng lan truyền. Hàng trăm người đã kéo về
thi nhau băm nát hai khu vực Gò Dưới, Gò Trên để tìm báu vật. Có người còn nhặt được cả vàng thỏi, tiền xưa có chỉ dấu
triều Nguyễn. Báu vật cổ theo tay những người buôn đồng nát trôi dạt khắp nơi
và mất dấu tích.
Dù làm thất thoát di vật lịch
sử quý báu nhưng những người săn cổ vật đã khiến những người tôn thờ Đức Cố quản
Trần Văn Thành phát hiện ra địa điểm chôn giấu tấm thẻ thứ 5, đến vị trí hang Ông Thẻ núi Cấm có khoảng
cách tương đương với 3 ngôi miếu thờ Ông
Thẻ kia. Người dân tự xây cất một ngôi miếu thờ tạm bằng tôn để các đối tượng
mê tín dị đoan làm nơi… hành nghề đồng cốt. Thỉnh thoảng, lực lượng công an địa
phương phải cất công đi lập biên bản, giải tán
những đối tượng này ra khỏi khu vực.
Vị trí "Ông Thẻ"
này nằm trên một gò đất cao bất thường giữa cánh đồng rộng mênh mông. Có thể,
trước khi cắm thẻ xuống, Quản cơ Trần Văn Thành đã đào đất đắp mô cao lên.
Trong lòng hang Ông Thẻ Núi
Cấm.
Lần theo dấu vết truyền thuyết
và lịch sử
Phật Thầy Tây An tên thật là
Đoàn Minh Huyên, mất năm 1856, hiện ở núi Sam (Châu Đốc, An Giang) vẫn còn mộ.
Nhiều đời, người An Giang đồn đoán rằng
ngài sinh năm 1807 tại làng Tòng Sơn, tổng An Thạnh Thượng, tỉnh Sa Đéc (nay là
tỉnh Đồng Tháp).
Tài liệu của giáo phái Bửu
Sơn Kỳ Hương cho biết, năm Kỷ Dậu (1849) miền Tây Nam Bộ trải qua một trận đại
dịch tả kinh hoàng, người chết như rạ. Cùng thời điểm đình làng Tòng Sơn xuất
hiện một vị tu sĩ tự nhận mình tên là Đoàn Minh Huyên, dân sở tại. Quan lại địa phương triệu hai người
họ Đoàn trong làng là Đoàn Văn Điểu và Đoàn Văn Viên đến nhận mặt nhưng họ
không nhận ra Đoàn Minh Huyên là ai. Thế là nhà chức trách đuổi vị tu sĩ ra khỏi
làng. Ngài ngược lên làng An Thạnh Trung (giáp ranh An Giang và Đồng Tháp) dựng
lều trị bệnh tả và rao giảng đạo cho bá tánh. Nhờ huyền thuật, ngài đã cứu sống
hàng ngàn người. Phần đạo, ngài khuyên mọi người thờ 4 cái ơn: ơn tổ tiên cha mẹ,
ơn đất nước, ơn Tam bảo, ơn đồng bào nhân loại. Ngài không chủ trương thờ hình
tượng. Trên bàn thờ chỉ để một tấm vải đỏ, gọi là trần điều. Tên tôn giáo mới
được gọi là Bửu Sơn Kỳ Hương.
Nhà chức trách buộc ngài phải
cạo đầu vào một ngôi chùa Phật giáo tu tụng. Ngôi chùa ấy là Tây An Cổ Tự tại
núi Sam, Châu Đốc. Từ đó, ngài lấy nơi đây làm điểm truyền giảng và thu nhận đệ
tử. Trong đó có một nhân vật yêu nước được lịch sử ghi nhận: Quản cơ Trần Văn
Thành - thủ lĩnh của cuộc khởi nghĩa Láng Linh - Bãi Thưa (1871-1873) ở miền
Tây Nam Bộ.
Vào năm 1851, Đoàn Minh
Huyên phân các đệ tử thành nhiều đoàn đi khẩn hoang những miền đất hoang vu, lập
trại ruộng. Một đại đệ tử tên là Phạm Thái Chung, còn được gọi là ông Đạo Lập
phát hiện tại vùng Bài Bài, Châu Đốc một tấm bia đá ẩn sâu dưới đất có khắc chữ
Hán: "Cây ếm này chôn vào mùa thu, tháng 8, năm Càn Long, nhà Thanh thứ
57" (tức năm 1792). Đoàn Minh Huyên cũng phát hiện một tấm bia đá khác ẩn
dưới gốc bồ đề cổ thụ trên núi Thủy Đài Sơn trong dãy Thất Sơn. Cho rằng, đó là
một trong những tấm bia trấn ếm của Cao Biền cắm trên lãnh thổ Việt Nam nhằm
làm suy yếu thế "cửu long thăng thiên", Đoàn Minh Huyên cho các đệ tử
khai quật tấm bia đá lên. Sau đó, ông dùng loại gỗ lào táo đẽo thành 5 cây trụ, chạm đầu hình búp sen, thân khắc chữ "Bửu
Sơn Kỳ Hương", sai Quản cơ Trần Văn
Thành chôn ở 5 địa điểm khác nhau để trấn và phá yểm của Cao Biền.
Ngày 22/6/1867, Tổng đốc An
Giang xuôi tay giao thành cho Pháp. Quản cơ Trần Văn Thành khi ấy là đệ tử của
Bửu Sơn Kỳ Hương quy tụ những binh lính cũ và tín đồ các trại ruộng của hệ phái
Bửu Sơn Kỳ Hương lập nên đội quân khởi nghĩa đắp ụ chiến đấu ở Cồn Nhỏ. Tháng 6/1868, ông dẫn lực lượng kháng chiến của
mình vào Láng Linh, Bãi Thưa (nay thuộc huyện Châu Phú, tỉnh An Giang) dựng trại,
tuyển quân, rèn đúc vũ khí chuẩn bị kháng chiến lâu dài, đặt tên cho lực lượng kháng chiến của mình là
Binh Gia Nghị. Trong thời gian này ông đã tổ chức ám sát tên chủ tỉnh Vĩnh Long
là Salicetti tại Vũng Liêm.
Tấm bia được cho là Pháp sư
Cao Biền trấn yểm bị Đoàn Minh Huyên phá yểm. Tấm bia này vẫn còn lưu giữ ở
chùa Bồng Lai.
Cuối năm 1868, hầu hết các
phong trào kháng Pháp tại Nam Kỳ đều bị Pháp đàn áp tan rã gần hết. Lực lượng
nghĩa binh của Trần Văn Thành lâm vào thế cô, ông bị Pháp truy nã. E ngại nghĩa
quân nhụt chí chiến đấu, Trần Văn Thành phải sử dụng niềm tin huyền thuật để hun
đúc tinh thần. Phật Thầy Tây An đã viên tịch. Trần Văn Thành cùng nhà sư Ngô Lợi lập nên một tôn giáo mới có tên gọi là Tứ Ân
Hiếu Nghĩa, lấy nền tảng giáo lý của Bửu Sơn Kỳ Hương để thuyết pháp thu phục
tín đồ nhằm quy tụ nhân dân tham gia kháng Pháp.
Năm 1872, Ngô Lợi tổ chức di
dân ở những vùng Pháp chiếm kéo về xã An Lộc, tổng An Lương, An Giang (nay là
xã Vĩnh Tường, huyện An Phú, An Giang), lập làng kháng chiến. Trần Văn Thành
cũng chiêu mộ được một võ quan triều Nguyễn, tên thường gọi là Cử Đa, giao nhiệm
vụ huấn luyện võ nghệ cho nghĩa quân. Võ phái Thất sơn Thần Quyền ra đời từ
đây.
Tháng 3/1873, thực dân Pháp
tổ chức một trận càn đại quy mô tấn công căn cứ Bãi Thưa. Sau 5 ngày đêm chiến
đấu kiên cường, căn cứ bị vỡ, Trần Văn Thành hy sinh. Tờ báo Le Courrier de
Saigon phát hành ngày 5/4/1873 đã tường thuật trận chiến và ca ngợi nghĩa quân
của Trần Văn Thành chiến đấu kiên cường, xem cái chết nhẹ như lông hồng.
Nếu so sánh với các cuộc ly
khai triều Nguyễn nhằm kháng Pháp ở miền Nam, có thể đánh giá cuộc kháng chiến
Láng Linh - Bãi Thưa của thủ lĩnh Trần Văn Thành có quy mô tổ chức lớn nhất, có
tôn chỉ, mục đích rõ ràng nhất. Chỉ riêng việc ông cắm 5 "cột mốc" để
xây dựng làng kháng chiến, giành dân lập ấp, mưu đồ kháng chiến lâu dài đã cho
thấy ông là một nhà chiến lược quân sự tài ba. Việc ông mượn thần quyền, tín
ngưỡng để quy tụ quần chúng trong bối cảnh đó hoàn toàn có chủ đích và phù hợp.
Tiếc rằng, cuộc xây dựng chưa kịp hoàn tất, cuộc kháng chiến đã bị quân Pháp
đàn áp.
Năm "Ông Thẻ", hay
nói cách khác là vị trí 5 cột mốc lãnh thổ kháng chiến là những di tích có giá
trị lịch sử liên quan đến cuộc kháng chiến chống Pháp của người dân miền Tây
Nam Bộ, cần phải được ghi nhận và bảo vệ. Vấn đề đặt ra là: các nhà khoa học lịch
sử cần tổ chức nghiên cứu nghiêm túc để có giải pháp tôn tạo, bảo vệ những di
tích này, đồng thời đánh giá lại cuộc khởi nghĩa Láng Linh - Bãi Thưa cho đúng
với giá trị lịch sử của nó và đúng với hy sinh máu xương của những nghĩa
sĩ quên thân vì Tổ quốc
Theo Nông Huyền Sơn (An Ninh
Thế Giới Online)
http://antg.cand.com.vn/Kinh-te-Van-hoa-The-Thao/Huyen-thoai-di-tich-5-Ong-The-o-mien-Tay-Nam-Bo-302613/