Tên gọi Vĩnh Long có nghĩa gì?
Tên Vĩnh Long, một thời được gọi
Vãng Long. Nhưng tên hành chính đầu tiên để chỉ tỉnh Vĩnh Long và rộng hơn bao
gồm các tỉnh lân cận hiện nay lại là Vĩnh Thanh (trấn) đã có trước khi Lê Văn
Duyệt mất (1832).
Lúc ấy, Gia Định (Nam Kỳ) được
phân chia thành Ngũ trấn (5 trấn) và có các trấn: “Biên Hòa, Phiên An, Định Tường,
Vĩnh Thanh, Hà Tiên”.
Sau cái chết của Lê Văn Duyệt,
Minh Mạng xóa bỏ Gia Định thành lập thành 6 tỉnh, gọi Lục tỉnh và có các tỉnh:
“Gia Định, Biên Hòa, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên”. Như vậy, trấn
Vĩnh Thanh được đổi thành tỉnh Vĩnh Long. Sau 1975, tỉnh Vĩnh Long lại có thời
gian được gọi tỉnh Cửu Long (chín rồng).
Về địa giới vùng đất, có thể
hình dung phạm vi thông qua tên gọi ở các thời kỳ: với tên gọi hành chính là trấn
Vĩnh Thanh, gồm các huyện: Vĩnh Bình, Vĩnh An, Vĩnh Định, Tân An; với tên gọi
hành chính là tỉnh Vĩnh Long, gồm các huyện: Vĩnh Bình, Vĩnh Trị, Bảo Hựu, Bảo
An, Tân Minh, Duy Minh, Lạc Hóa, Tuân Nghĩa, Trà Vinh.
Tên gọi Vĩnh Long, âm Hán Việt
có nhiều nghĩa, vấn đề là chữ Hán. Vì vậy, tên gọi Vĩnh Long, có thể ngụ ý: “sự
thịnh vượng (long) bền lâu, mãi mãi (vĩnh)”; còn “vãng”, nếu là sự chuyển đổi từ
“vĩnh” theo con đường ngữ nghĩa thì khó lý giải mối quan hệ ngữ nghĩa, vì nghĩa
của “vãng” là “đi, đã qua, thường” không phù hợp với nghĩa của “vĩnh”, như trong
từ ghép “vĩnh long”.
Có thể lý giải con đường chuyển
đổi ngữ âm của tổ hợp âm được ghi trên chữ viết “-inh” từ một nguyên âm hẹp,
hàng trước, ngắn ký hiệu chữ viết là “-i-” kết hợp với phụ âm gốc lưỡi, nhưng bị
ngạc hóa (nhích về phía trước ngạc) nên được ghi là “-nh”, thành một nguyên âm
hàng giữa, dài được ghi trên chữ viết là “-a-” với một phụ âm gốc lưỡi được ghi
trên chữ viết là “-ng”.
Do vậy “-inh” chuyển thành
“-ang” dễ phát âm hơn, có cơ sở ngữ âm thích hợp.
Như trong các từ Nam Bộ: “linh
láng, dình (dềnh) dàng, nghinh (nghênh) ngang, nghĩnh (nghễnh) ngãng…” Còn lý
giải sự chuyển đổi ngữ âm do kị húy thì e không có cơ sở.
Vì từ “Vĩnh” đã có rất lâu trước
nhiều đời vua Nguyễn, không đợi đến vua Duy Tân, Bảo Đại có lót chữ “Vĩnh”
trong tên đế hệ “phúc vĩnh” để có “lệnh cấm” mà thay đổi.
THẠCH THẢO - Báo Vĩnh Long Online