Miệt thứ không xa xôi
Má ơi đừng gả con xa chim kêu vượn hú biết
nhà má đâu, sương khuya ướt đẫm giàn bầu, em về miệt thứ bỏ sầu cho ai...
Phà Tắc Cậu nối đôi bờ sông Cái Lớn - Ảnh: Thuận Thắng
Cẩm
Ly hát bài Em về miệt thứ của nhạc sĩ Hà Phương nghe buồn đứt ruột, nhưng đó là
miệt thứ của những năm tháng đã xa, khi vùng đất gắn liền với rừng U Minh này
còn là một chốn hoang vu, xa xôi để cô gái theo chồng về đây chỉ biết thở than
trong những canh khuya. Bây giờ bạn có thể đi du lịch miệt thứ, thăm thú một
vùng đất phương Nam nhiều chuyện lạ.
Miệt
thứ là tên chung chỉ vùng đất thuộc địa bàn các huyện An Biên, An Minh, Vĩnh
Thuận và U Minh Thượng (Kiên Giang) nằm cặp sông Cái Lớn, chạy ra vịnh Rạch Giá
rồi quặt trái xuống tới huyện U Minh (Cà Mau). Toàn bộ miệt thứ trải dài trên
30km kể từ sông Cái Lớn tới trung tâm huyện An Minh, rộng chừng 15km tính từ bờ
biển vào đất liền.
Từ
Cần Thơ muốn về miệt thứ có hai ngả: hoặc qua Vị Thanh (Hậu Giang) theo quốc lộ
61 tới ngã ba Minh Lương rẽ trái vô quốc lộ 63 để qua phà Tắc Cậu, hoặc theo
quốc lộ 91 qua Thốt Nốt đi Rạch Sỏi (Kiên Giang) tới ngã ba Minh Lương rẽ phải
vô quốc lộ 63 qua phà Tắc Cậu.
Bản đồ miệt thứ
Gọi
tên bằng “thứ”
Qua
bến phà nổi tiếng nhờ bài vọng cổ Hoa tím bằng lăng của tác giả Linh Châu với
giọng ngọt lịm như đường phèn của nghệ sĩ Thanh Kim Huệ (Con rạch Cái Thia chảy
dìa Tắc Cậu, con sáo qua sông con sáo đậu hiên nhà), tới bờ rạch Xẻo Rô coi như
đặt chân vô đất miệt thứ. Sách Đại Nam nhất thống chí viết rằng “vùng này gọi
là Thập Câu, tức mười con rạch. Từ con rạch thứ nhất tới rạch thứ mười xếp đặt
thành hàng đều nhau, nước từ rừng tràm chảy thông ra biển, sinh ra rất nhiều cá
tôm”.
Người
xưa theo mốc thứ tự của các con rạch đặt tên cho địa bàn, lần lượt là Thứ Hai,
Thứ Ba... tới Thứ Mười Một. Lần hồi những “thứ” ấy được ráp với “miệt” (giống
như miệt đồng, miệt vườn) trở thành “miệt thứ”.
Vì
sao không có rạch Thứ Một? Bởi đó chính là kênh xáng Xẻo Rô dài 35km do người
Pháp đào từ đầu thế kỷ 20 nằm dọc biển, cách bờ biển chừng 6km, từ sông Cái Lớn
cắt ngang mười con rạch hướng về Cà Mau để khai thác, vận chuyển tài nguyên của
rừng U Minh như than đước, tràm, mật ong...
Tại
mỗi ngã ba kênh rạch, dân cư đổ về tụ họp đông đúc để mua bán, trao đổi hàng
hóa, riết thành chốn thị tứ, về sau là nơi đặt trụ sở cơ quan hành chính cấp
huyện, xã nhưng vẫn giữ tên đã có từ xưa như: thị trấn Thứ Ba (trung tâm huyện
An Biên), Thứ Bảy (trung tâm xã Đông Thái), Thứ Chín (trung tâm xã Đông Hưng),
thị trấn Thứ Mười Một (trung tâm huyện An Minh).
Điều
đặc biệt ngộ nghĩnh là sau này ở khoảng giữa đất Thứ Chín và Thứ Mười người dân
đào thêm một con kênh nhỏ thông ra biển để tiện mua bán tôm cá, neo đậu ghe tàu
và cũng theo thứ tự, vùng này có tên là Thứ... Chín Rưỡi (khu vực ấp Thạnh An,
xã Đông Thạnh, huyện An Minh ngày nay).
Xe buýt đưa rước học sinh vùng miệt thứ - Ảnh: T.T.
Theo
ông Lâm Phước Hải - trưởng ban tuyên giáo Huyện ủy An Minh: “Miệt thứ là vùng
đất rộng, trước chủ yếu là rừng, sau được khai thác trồng lúa, hoa màu và nuôi
tôm. Rừng U Minh Thượng cách đây chừng 10km từng là căn cứ của Tỉnh ủy Rạch
Giá, Khu ủy và Quân khu 9. Nơi đây người dân từng chở che, đùm bọc các vị lãnh
đạo như Võ Văn Kiệt, Lê Đức Anh, Trần Quang Quít, La Lâm Gia, Nguyễn Ngọc
Sến...”.
Miệt
thứ còn gắn liền với rừng U Minh, nơi được nhà văn Sơn Nam mô tả trong Lịch sử
khẩn hoang miền Nam: “U Minh là tên khu vực từ xa xưa đã được hiểu là vùng đen
tối, mù mịt. U Minh là mờ, u ám, thí dụ như cõi u minh chốn địa ngục...”.
Hồi
xưa nói đến “miệt thứ”, người ta hình dung ngay một nơi xa xôi, hoang vu, bất
trắc như lời cô gái đi lấy chồng xa trong bài hát Em về miệt thứ buồn hiu hắt.
Cuộc sống êm đềm bên rạch Thứ Ba - Ảnh: T.T.
Hào hùng đất rừng phương Nam
Chúng tôi theo quốc lộ 63 đến Thứ Chín Rưỡi, đi xuồng qua kênh Xẻo Rô ghé thăm nhà ông Phạm Minh Hòa (Năm Hòa), 69 tuổi, ở ấp Mười Quỳnh, xã Đông Hưng. Riêng tên ấp Mười Quỳnh có tích như lời ông Năm Hòa kể: “Ấp này nằm trong Thứ Mười, hồi xưa có ông Sáu Quỳnh, cán bộ Việt Minh, phụ trách địa bàn. Ông Sáu đánh giặc rất giỏi, hi sinh năm 1958 trong một trận càn của Mỹ. Tưởng nhớ công lao ông, người dân lấy tên ông ráp với địa bàn, đặt tên ấp là Mười Quỳnh”.
“Hồi
trào Ngô Đình Diệm, dân vô miệt thứ được coi toàn là thành phần “bất hảo” - ông
Năm Hòa nhớ lại - Đó là những người trốn thuế thân, tá điền chống lại địa chủ,
người trốn nợ, trai gái yêu nhau bỏ nhà trốn đi và có cả một số kẻ trộm cướp bị
truy nã... Nhưng nói chung là những người nghèo dắt díu nhau vô đây, chỉ có cái
xuồng là tài sản duy nhất. Rồi họ đốn lá che chòi mà ở, cắt dây choại phơi khô
bện dây đem bán.
Dây
choại ở đây mọc thành rừng, chắc, dai và dài giống như dây mây. Rừng tràm dày
bịt bao nhiêu thì dây choại mọc lên đeo kín bấy nhiêu. Hồi đó cất nhà, dựng
cột, dừng vách, đan vó, bện đăng, làm lợp bắt cá tôm... thảy đều dùng dây
choại. Vùng này trên cơm dưới cá. Khoét lõm ruộng chừng vài công, cấy lúa là có
gạo ăn. Cá dưới rạch thò tay xuống bắt lên cả rổ.
Bình
thường cá ục dưới rạch như nước cơm sôi, tới mùa khô nước cạn cá rút hết xuống
mấy cái vũng hoặc đìa, bà con tới bắt đem về. Cá nhiều ăn không hết phải phơi
khô, làm mắm ăn dần. Còn rắn, rùa, kỳ đà, heo rừng, ba ba... nhiều vô số kể.
Rồi
những người đi ăn ong cứ vô rừng tràm kiếm mật ong đem ra chợ Rạch Giá bán, đổi
lấy vải may quần áo, đóng thêm ghe xuồng, mua tủ bàn ghế, sắm máy “cô le” chạy
tới lui”. Cuộc sống miệt thứ dễ thở nên người dân trong vùng rủ thêm bà con,
bạn bè ở quê từ Mỹ Tho, Bến Tre, Vĩnh Bình, Cần Thơ... qua lại làm ăn. Dân cư
miệt thứ dần đông đúc.
Trẻ em ở những ấp vùng sâu của miệt thứ đến trường bằng ghe máy - Ảnh: T.T.
Thấy
chúng tôi ngắm nhìn dòng kênh Xẻo Rô nước đỏ quạch như nước trà, chị Lê Phượng
Rồng (Ba Rồng) - phó ban tuyên giáo Huyện ủy An Minh - giải thích: “Coi đỏ vậy
chớ không hại gì đâu. Đó là màu nước tràm trong rừng chảy ra biển. Vùng này có
địa hình hơi dốc, cao ở phía rừng và thấp dần ra biển nên nước mưa chảy tự
nhiên, lâu dần tạo ra mười con rạch.
Hồi
xưa rạch đi ngoằn ngoèo giống như rắn bò. Hai bên bờ cỏ mọc, lá dừa nước gie ra
sum suê, um tùm. Muốn đi qua phải dùng dao rựa đốn vẹt hai bên mới có chỗ
trống. Trên là rừng tràm, dưới là dừa nước, dưới nữa là cỏ lác nên mặt trời ít
khi rọi tới, mới chiều xuống đã thấy tối thui. Vì rậm rạp âm u nên kêu rừng U
Minh cũng phải...”.
“Sản
vật vùng này hồi đó bự chảng, phải nói là khổng lồ mới đúng - ông Năm Hòa tiếp
nối câu chuyện - Ông nội tui kể chính mắt ông nhìn thấy con cá sấu dài gần năm
chục thước, con rùa bự bằng cái nia, kỳ đà cỡ chiếc ghe tam bản, còn rắn thì
kêu bằng thuồng luồng vì nó lớn hết cỡ.
Chuyện
xưa kể rằng chúa Nguyễn Ánh khi bị quân Tây Sơn đuổi đánh chạy dạt vô vùng này
lưu lại một thời gian. Gần Thứ Chín lúc đó có con thuồng luồng hay về bắt con
nít ăn thịt, dân tình lo sợ ăn ngủ không yên. May nhờ có một vị quan của chúa
Nguyễn lập mưu dụ thuồng luồng vô ngọn rạch rồi cho quân giăng lưới bắt được,
giết chết. Người dân nhớ ơn đặt tên rạch là Thuồng Luồng”. Rạch
này hiện nay nằm trên phạm vi ấp Thuồng Luồng, xã Đông Hưng A, huyện An Minh.
Ảnh: Thuận Thắng
Quả
là người miệt thứ hết sức chơn chất, bình dị, cứ thấy cái gì có tích có tuồng
hoặc có hình có dáng là đặt tên ngay chóc. Từ Thứ Chín Rưỡi, chúng tôi đi tiếp
về hướng Thứ Mười Một. Qua khỏi Thứ Mười Một một đỗi có đoạn kênh hơi cong quẹo
như cùi chỏ, vậy là người dân đặt tên cho khúc kênh này Mười Quẹo, ráp đoạn
kênh quẹo với Thứ Mười mà thành.
Qua
khỏi Thứ Mười Một, đi tiếp 10km tới Cán Gáo. Vùng này có kênh Cán Gáo nên tên
ấp cũng là Cán Gáo, thuộc xã Đông Hưng B, huyện An Minh.
Theo
ông Lâm Kiên Dũng - trưởng Đài truyền thanh huyện An Minh, hồi xưa đất này có
một cái lung (bàu) rất lớn, được hình thành bởi dòng chảy sông Trẹm từ hướng Cà
Mau vô, chạy lòng vòng thành những con rạch ngoằn ngoèo ôm lấy cái lung ở giữa
có hình dáng như cái gáo dừa. Sau đó người dân đào một con kênh từ trong rừng
đâm thẳng qua cái lung, giống như cái cán xuyên qua gáo dừa, tên gọi Cán Gáo
phát sinh từ đó.
Ông
Dũng kể tiếp: “Có một trùng hợp ngẫu nhiên là thời đánh Mỹ, máy bay cán gáo
(trực thăng Mỹ - NV) thường quần trên đầu rồi bắn xả xuống cán bộ mình hoạt
động trong vùng. Anh em mới có sáng kiến đốt khói dụ chúng bay gần vô đám cây
lá um tùm bên dưới, mình núp trong đó bắn lên. Cán gáo rớt như sung rụng, tính
ra có tới 18 chiếc. Địa danh Cán Gáo càng được tô đậm, gắn liền với chiến công
chống Mỹ của quân dân vùng miệt thứ”.
Ông Phạm Minh Hòa ở ấp Mười Quỳnh nhớ về một thời đã xa ở miệt thứ - Ảnh: T.T.
Xa
rồi thời u ám
Cả vùng miệt thứ có 25 kênh
rạch. Ngoài những con kênh được đặt tên Thứ, có những kênh mới đào sau này xen
kẽ giữa các kênh cũ nhưng vì nhỏ và ngắn hơn nên được gọi là “xẻo” (nghĩa là
con rạch nhỏ). Miệt thứ có rất nhiều chợ họp ở chân cầu tại các “ngã tư kênh”
và các chợ nổi lưu động trên các kênh. Trong ảnh: Phụ nữ lái vỏ lãi gắn máy
trên kênh rạch vùng miệt thứ.
Nhà văn Sơn Nam nếu còn sống bây giờ về
thăm quê ông (Thứ Bảy, xã Đông Thái, huyện An Biên) chỉ cần phóng xe máy từ
Rạch Giá vèo cái là tới. Hồi tuổi thanh niên, nhà văn muốn đi học trung học
phải lặn lội qua tận Rạch Giá rồi về Cần Thơ ở trọ, cả năm mới về quê một lần,
mà phải chèo ghe cả ngày mới tới. Bây giờ học trò xứ ông có trường học tại chỗ.
Riêng huyện An Minh là vùng sâu hơn An Biên cũng có tới ba trường cấp THPT.
Đất
rừng U Minh bây giờ không còn u ám nữa. Ông Thái Văn Khởi, phó bí thư xã Tân
Thạnh - xã được coi là vùng sâu của huyện An Minh, cho biết trong xã nay đã có
85% hộ sử dụng điện, 100% hộ xài điện thoại và truyền hình. Nhiều gia đình
trong xã có 6-7 người con đều học đại học, có người là tiến sĩ, thạc sĩ. Ông
Lâm Kiên Dũng nhớ lại: “Chuyện học hồi đó nghe phát ớn. Mười người dốt hết
chín, ban đêm phải đốt đèn dầu mù u mà học. Người biết chữ dạy người chưa biết
chớ đâu có thầy cô dạy dỗ đàng hoàng như bây giờ”.
Bây
giờ chỉ cần qua tới bờ kênh Xẻo Rô đã thấy chợ búa ồn ào nhộn nhịp, tháp ăngten
phủ sóng điện thoại di động cao ngất ngưởng. Con đường cặp kênh xáng Xẻo Rô xưa
kia là bờ đất, sau là lộ đá đỏ, nay là quốc lộ 63 đổ bêtông rộng 7m, ôtô chạy
một mạch tới Cà Mau. Dưới kênh Xẻo Rô, cứ vài chục phút lại thấy tàu cao tốc
Rạch Giá - Cà Mau băng băng lướt sóng.
Cầu dây văng nối hai bờ kênh xáng Xẻo Rô ở thị trấn Thứ Mười Một - Ảnh: T.T.
Ấn
tượng mạnh với chúng tôi là hình ảnh những cô gái miệt thứ lái vỏ lãi gắn máy
xe hơi phía sau chạy “hù hù” như canô tóe nước trắng xóa. Thấy tôi xuýt xoa,
chị Ba Rồng giải thích: “Giống như trên bờ chị em chạy xe gắn máy tới lui mua
bán làm ăn thì dưới sông chị em chạy vỏ lãi gắn máy thay cho bơi xuồng hồi
trước. Do đặc điểm sông rạch chằng chịt, chị em cũng phải vươn lên ngang bằng
với đàn ông, quán xuyến chuyện nhà”.
Chúng
tôi qua kênh Xẻo Rô, theo con lộ nhựa dọc kênh Thứ Chín Rưỡi dài 12km ra biển.
Rừng tràm do dân trồng gợi nhớ cảnh rừng khi xưa, nhưng đồng ruộng đã mở ra
nhiều hơn. Nguồn lợi từ mô hình lúa - cá - tôm đang tạo đà phát triển cho vùng
đất này. Cặp theo mé biển là rừng mắm bạt ngàn, thành quả từ công cuộc giữ
rừng, giữ bờ chống xói lở của chính quyền địa phương.
Và
có một điều nữa có thể bác Sơn Nam khó hình dung được về quê nhà mình hôm nay:
ấp Xẻo Nhàu - nơi kênh Thứ Chín Rưỡi trổ ra biển - tấp nập ghe tàu đánh cá neo
đậu. Xóm biển Xẻo Nhàu nghèo khổ ngày trước nay đã có nhà lầu 2-3 tầng, trên
nóc nhà là rừng ăngten chĩa lên tua tủa như chuồn chuồn bay. Người dân không
còn bơi xuồng đốn lá cất chòi, cắt dây choại bện kiếm sống nữa mà đã chạy vỏ
lãi gắn máy ào ào, cất nhà kiên cố ì xèo, mở dịch vụ cung cấp xăng dầu, nước
đá, vận chuyển hải sản và nuôi tôm làm giàu.
Ở
mép bờ biển, cảng cá Xẻo Nhàu đang đóng cọc xây dựng nhà phục vụ hậu cần cho
tàu biển ghé đậu. Phó chủ tịch UBND xã Tân Thạnh Nguyễn Thị Ngoãn cho biết sắp
tới Nhà nước sẽ làm cầu bêtông bắc qua kênh Xẻo Rô nối liền cảng cá này. Cầu
đường tới đâu, dân giàu tới đó mà!
Miệt
thứ ngày nay không còn xa xôi, u ám nữa.
Bện dây choại là kế sinh nhai của nhiều người dân miệt thứ hồi xưa, nay đọt choại là một loại rau được ưa thích - Ảnh: T.T.
Theo DƯƠNG THẾ HÙNG (Báo Tuổi trẻ Online)